Cân bằng axit / kiềm (pH) – Nguyên nhân và giải pháp điều trị ung thư

Acid/Alkaline Balance (pH) – The Prime Cause and Cure for Cancer
Tiến sĩ Mark Sircus Ac., OMD

Hầu hết chúng ta sẽ ngạc nhiên khi thấy rằng có một bác sĩ chuyên khoa ung thư tại Rome, Tiến sĩ Tullio Simoncini, dùng sodium bicarbonate để tiêu diệt các khối u ung thư. [i]

Sodium bicarbonate là an toàn, cực kỳ rẻ tiền và hiệu quả khi dùng với mô ung thư. Nó là một loại thuốc mạnh. Nó làm nhiễm độc tế bào ung thư bằng chất kiềm, chất này cho phép ôxy thấm vào các tế bào ung thư nhiều hơn mức chúng có thể chịu đựng được. Các tế bào ung thư không thể tồn tại được khi mức ô xy cao. Sodium bicarbonate tiêu diệt nhanh chóng các tế bào ung thư. Toàn bộ quá trình điều trị chỉ mất vài ngày, giống như cách điều trị ung thư bằng cách đốt chúng bằng tia laser. (hãy xem sự thay đổi pH kết hợp với nhiệt ở dưới.)

Các ngoại bào (PHE) của các khối u rắn có tính axit nhiều hơn đáng kể so với mô bình thường. [ii]

Trường hợp 1: Một bệnh nhân được chẩn đoán có khối u phổi, được điều trị bằng natri bicarbonate, trước khi phẫu thuật để loại bỏ một phần phổi. Việc điều trị được thực hiện bằng uống sodium bicarbonate và dùng bình xịt. Sau đợt điều trị đầu tiên các u nhỏ và sự hấp thụ giảm rõ rệt, và sau 8 tháng không còn thấy chúng nữa. Phương pháp điều trị này cũng làm giảm kích thước của gan, kết quả đó được xác nhận bằng chụp X-quang và chụp cắt lớp.

Các nghiên cứu còn cho thấy các liệu pháp xử lý bằng sodium bicarbonate đã trợ giúp tốt cho nhiều dạng hóa trị liệu [iii]. Protein có thể bị biến dạng trong cơ thể và trong ống nghiệm khi gia tăng độ acid. Trong thực tế, độ pH đóng vai trò kiểm soát hầu hết các quá trình diễn ra trong tế bào. Cân bằng độ pH của máu được ghi nhận trong các văn bản y sinh học như là một trong những sự cân bằng sinh hóa quan trọng nhất trong cơ thể con người. pH là từ viết tắt của “Hydro tiềm năng”. Theo định nghĩa, nó chỉ mức độ tập trung của các ion hydro trong một chất hoặc trong các dung dịch. Nó được đo trên thang điểm logarit từ 0 đến -14. Dung dịch có độ pH lớn là dung dịch có tính kiềm cao hơn và có một tiềm năng hấp thụ các ion hydro lớn hơn. Dung dịch có độ pH thấp hơn là dung dịch có tính acid cao hơn và có tiềm năng hấp thụ các ion hydro thấp hơn.

Độ pH rất quan trọng bởi vì độ pH kiểm soát tốc độ của các phản ứng sinh hóa của cơ thể. Nó làm điều này bằng cách kiểm soát tốc độ hoạt động của enzyme cũng như tốc độ di chuyển của các điện tích trong cơ thể. Độ pH của một chất hoặc dung dịch cao hơn, sẽ làm điện trở của vật hoặc dung dịch lớn hơn. Vì vậy, các điện tích di chuyển chậm hơn khi độ pH cao hơn. Theo ngôn ngữ sinh hóa, độ pH thấp (acid) đi liền với khái niệm nóng và nhanh; còn độ pH cao (kiềm) nghĩa là lạnh và chậm.

Các mô ung thư có nồng độ các hóa chất độc hại như thuốc trừ sâu cao hơn nhiều so với các mô lành.

Năm 1973, một nghiên cứu thực hiện bởi Bộ môn về sức khoẻ nghề nghiệp của khoa y trường Đại học Hadassah Giê-ru-sa-lem (Israel) đã tìm thấy rằng ở phụ nữ bị ung thư vú nồng độ hóa chất độc hại như DDT và PCBs “tăng rất nhiều trong các tế bào ác tính so với các tế bào vú bình thường và mô mỡ lân cận”. [iv]

Hàng ngày chúng ta tiếp nhận vào cơ thể một lượng lớn các hóa chất độc hại từ nước mưa, từ thực phẩm, từ nước dùng có chứa florua, clo. Ngay cả các nha sĩ cũng dùng thủy ngân trong chữa răng. Các nhà ung thư học đều biết các chất độc hại này là nguyên nhân gây ung thư. Người ta dùng các liệu pháp thải độc, thải kim loại nặng trong cơ thể để chống lại các tác nhân xấu này.

International Medical Veritas Association (IMVA) khuyến cáo dùng các loại thực phẩm có tính kiềm và bicarbonate natri giúp giữ độ pH của máu cao, để máu có khả năng mang nhiều ôxy hơn. Điều này giúp các tế bào hoạt động hiệu quả hơn và tăng khả năng loại bỏ các hóa chất độc hại. Quá trình thải độc sẽ dễ dàng và an toàn hơn trong điều kiện hơi kiềm. Tăng độ pH nước tiểu sẽ làm giảm tổn hại do ôxy hóa trong thận, điều đó chỉ cho ta phương pháp điều trị dùng bicarbonate.

Bệnh nhân dùng sodium bicarbonate đạt được độ pH nước tiểu là 6,5 còn khi dùng natri clorua độ pH là 5.6. Về lý thuyết, kiềm hóa có tác dụng chống lại sự hình thành của các gốc tự do là nguyên nhân gây ra bệnh thận. [v]
Tiến sĩ Michael Metro

Độ pH của cơ thể làm thay đổi đáng kể các hiệu ứng sinh học của nó. Ngay cả gien cũng chịu ảnh hưởng của độ pH bên ngoài. Độ pH điều chỉnh các protein. Sự tăng mức độ ôxy hóa có liên quan (gần như theo cấp số nhân) với những thay đổi pH mang tính axit, đặc biệt nguy hiểm cho các ty thể. Epigenetics (khoa học về động lực học của sự phát triển) hiện đã bắt đầu làm lu mờ thuyết di truyền truyền thống. Thuyết này nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ ăn uống, hút thuốc…tới hành vi của các gien ( không phải là sự di truyền).

Bệnh tật chỉ có thể bị tấn công một cách hợp lý và trên diện rộng khi biết nguyên nhân chính gây ra nó.
Tiến sĩ Otto Warburg

Tiến sĩ Otto Warburg, hai lần đoạt giải Nobel, đã tuyên bố trong cuốn sách của mình, trao đổi chất của khối u- nguyên nhân chính của ung thư là sự thay thế ôxy tế bào hô hấp bằng quá trình lên men đường. Sự tăng trưởng của các tế bào ung thư được bắt đầu bằng một quá trình lên men, quá trình này chỉ có thể được kích hoạt chỉ trong trường hợp không có ôxy ở cấp độ tế bào. Warburg đã mô tả một bức tranh kinh điển về điều kiện có tính axit. Giống như các tế bào trong các bắp thịt khi làm việc quá sức sẽ sản sinh axit lactic, các tế bào ung thư cũng tràn đầy axit lactic và các hợp chất có tính axit khác gây ra độ pH có tính acid cao.

Chỉ sau khi thấy tầm quan trọng của lưu huỳnh với sức khỏe con người và sự hữu ích của một chất hóa học cơ bản như sodium thiosulfate, chúng ta mới có một bài học về sức mạnh của bicarbonate natri với khả năng làm các tế bào ung thư nhanh chóng có tính kiềm. Giống như bắn một tên lửa hành trình sodium bicarbonate có điều khiển hiệu quả, an toàn, nhanh chóng và chính xác, rẻ tiền. Chỉ cần tốn vài cent một ngày là có thể tránh bị ung thư cho mình, và cho những người thân yêu. Chúng ta có thể xử lý nước uống bằng cách đưa chất đó vào bộ lọc thẩm thấu ngược.

Không thể hiểu bệnh ung thư nếu không hiểu tại sao tại sao một số mô trong cơ thể thiếu ôxy thì dễ bị ung thư. Mô ung thư có tính axit, trong khi các mô khỏe mạnh có tính kiềm. Nước (H2O) phân giải thành H + và OH-. Khi có nhiều H + hơn OH- nó có tính axit. Khi OH- nhiều hơn H + nó có tính kiềm. Ôxy kết hợp với ion H + tạo thành nước. Như vậy ôxy giúp trung hòa axit, Ngược lại acid ngăn ôxy đến các mô cần nó. Mô có tính axit không có ôxy tự do. Một dung dịch kiềm có tính ngược lại. Hai ion- hydro ôxy (OH-) có thể kết hợp để sinh ra một phân tử nước và một nguyên tử ôxy. Nói cách khác, dung dịch kiềm có thể cung cấp ôxy cho các mô.

Thang đo pH từ 0 đến 14, 7 là trung tính. Dưới 7 là axit và trên 7 có tính kiềm. Máu, bạch huyết và dịch não tủy não trong cơ thể người được thiết kế hơi có tính kiềm với pH là 7,4.

Ở độ pH trên 7,4 một chút tế bào ung thư trở nên không hoạt động và ở pH 8,5 tế bào ung thư sẽ chết trong khi các tế bào khỏe mạnh sẽ sống. Điều này làm nẩy sinh một loạt các phương pháp điều trị dựa trên tăng độ kiềm của các mô như ăn chay, uống trái cây tươi và nước rau ép, và bổ sung chế độ ăn uống với các khoáng chất kiềm như canxi, potassium, magiê, kali, xêzi và rubidium. Nhưng không có gì có thể so sánh với sức mạnh kiềm hóa tức thì của bicarbonate natri để điều trị an toàn và hiệu quả bệnh ung thư.

Giống như magiê clorua hoặc magiê sunfat là thuốc cấp cứu xuất sắc,, natri bicarbonate một loại hóa chất cơ bản, một dưỡng chất trong tự nhiên là một thực phẩm chức năng không bị kiểm soát theo luật (CODEX). Kiểm soát bicarbonate có nghĩa là phải yêu cầu các bà mẹ không dùng nó khi làm bánh. Như vậy chúng ta có thể xác định bicarbonate natri như là một thuốc cấp cứu cho bệnh ung thư. Theo các cách tiếp cận đã nói trên, nó còn giúp chức năng sinh lý nói chung, về mặt hóa học nó giúp cơ thể chúng ta ngăn ngừa sự phát triển ung thư mới.

Ung thư có vẻ phát triển chậm trong một môi trường axit cao (bởi vì các axit cũng phá hủy một phần chúng),ung thư cũng có thể phát triển nhanh hơn khi cơ thể của bạn trở nên kiềm hơn. Nhưng khi đạt độ pH trên 7,4 ung thư chuyển vào trạng thái ngủ (không hoạt động). Vì thế cần đạt được độ pH trên 7,4 một cách nhanh chóng. Một khi đã đạt được độ pH trên 7,4, rất cần theo dõi thường xuyên độ pH của nước bọt để đảm bảo rằng cơ thể vẫn còn đủ kiềm ở mức cần thiết.

Sử dụng sớm và thường xuyên sodium bicarbonate có liên quan với tỷ lệ tỉnh sớm cao hơn và có tác dụng về thần kinh trong thời gian dài tốt hơn. Sodium bicarbonate có lợi trong quá trình hô hấp nhân tạo (CPR). [vi]

“Điều trị bằng muối bicarbonate có thể thực hiện qua đường uống, thông qua bình xịt, tiêm tĩnh mạch và dùng ống thông cho trực tiếp vào các khối u.” Trong các phương pháp điều trị của bác sĩ Tullio Simoncini, sodium bicarbonate được đưa đến các cơ quan liên quan càng gần đến khu vực bị ảnh hưởng càng tốt., ví dụ, âm đạo, bụng, phúc mạc cho bệnh ung thư cổ tử cung, thông qua động mạch gan cho bệnh ung thư gan.Sodium bicarbonate dùng uống, qua bình phun hoặc tiêm tĩnh mạch có thể đạt được kết quả tích cực trong hầu hết các khối u, bao gồm cả não, (có thể không có hiệu quả với các khối u xương). Tiến sĩ Simoncini, với sự giúp đỡ của X-quang đã có thể đến được những khu vực của cơ thể mà trước đây đã không thể tiếp cận. Điều này đạt được thông qua việc đặt vị trí ống thông thích hợp trong khoang phúc mạc, màng phổi, hoặc trong các động mạch để đến các cơ quan khác. [vii]

Biện pháp hiệu quả nhất để điều trị viêm niêm mạc ở bệnh nhân ung thư đầu và cổ là thường xuyên xúc miệng với bicarbonate natri để rửa sạch, và giảm số lượng của quần thể vi khuẩn răng miệng. [viii]

Trường hợp hai: Một đứa trẻ chín tuổi được nhập viện và được chẩn đoán ung thư xương bả vai phải. Sau một số đợt hóa trị, phẫu thuật cắt bỏ xương khối u vẫn tiếp tục tăng trưởng. Sau đó người ta áp dụng liệu pháp điều trị bằng muối Sodium bicarbonate, dùng ống thông đưa 500cc phleboclysis 5% vào động mạch phụ clavian phải để đến khối u. Kích thước 3 khối u đo được ngày 7 tháng 5 năm 2001 lần lượt là:
a. 6,5 cm
b. 4,4 cm
c. 2,4 cm

Sau khi điều trị bằng muối sodium bicarbonate kiểm tra lại vào ngày 10 tháng 9 năm 2001chỉ còn lại một khối u, với kích thước 1,5 cm, mà rất có thể chỉ là một vết sẹo.

Tiêm Sodium bicarbonate cũng được chỉ định trong điều trị toan hóa ở bệnh thận nặng, bệnh tiểu đường không kiểm soát được, và suy tuần hoàn do sốc hoặc mất nước nghiêm trọng, khi làm tuần hoàn máu ngoài cơ thể, tim ngừng đập, nhiễm toan lactic nặng. Sodium bicarbonate được chỉ định trong điều trị nhiễm độc thuốc, kể cả thuốc an thần. Cacbonat natri có hiệu quả trong điều trị ngộ độc hoặc quá liều các loại thuốc nhờ loại bỏ tác động lên tim và thần kinh.[ix]

Sodium bicarbonate hữu ích trong điều trị rối loạn thần kinh ở trẻ em.

Hiểu biết về sodium bicarbonate rất quan trọng cho các bậc phụ huynh vì tỷ lệ ung thư ở trẻ em đang tăng trưởng theo cấp số nhân. Nhưng các bậc phụ huynh kéo đến tòa chống lại việc xạ trị, mổ và dùng các hóa chất gây chết người, cũng vẫn phải chứng kiến cái chết của con cái họ. Bác sĩ ung thư đang ngày càng phải dùng đến hệ thống tư pháp để trẻ em thực hiện kết luận của các tòa án sau đó biến chúng thành vật thực hành y học vô trách nhiệm. không thể tha thứ việc tách trẻ em từ cha và mẹ chúng trong cuộc khủng hoảng y tế. Trái tim và linh hồn đau khổ của bệnh nhân chẳng có gì để làm với thuốc an toàn, hiệu quả. Một sự thật trần trụi là các bác sĩ và các tổ chức y tế đã không giành được sự tin tưởng cần thiết cho các mức độ can thiệp vào cuộc sống của người dân. Với sự an toàn, bệnh nhân trượt dài qua năm tháng [x] trẻ em vẫn không an toàn trong bệnh viện.

Một liệu pháp cực kỳ đơn giản được sử dụng bởi các bác sĩ điều trị bệnh tự kỷ là cung cấp một liều thuốc giải độc nhẹ trung hòa axit dư. Các sản phẩm tiện lợi nhất là một loại thuốc không cần kê toa được gọi là AlkaSeltzer GoldT. Không sử dụng bất kỳ loại khác AlkaSeltzerT. AlkaSeltzer GoldT chỉ đơn giản là một sản phẩm rất an toàn (bicarbonate natri và kali) giúp trung hòa axit dư dưới bất kỳ dạng nào.
Tiến sĩ William Shaw
Phương pháp điều trị sinh học cho bệnh Tự kỷ và PDD

Patricia Kane -Một người mẹ đã viết, “Phương pháp điều trị này rất tốt và cứu sống hai con tôi, mặc dù cả hai đều có nồng độ rất cao của men.” Khôi phục lại cân bằng của axit / kiềm cũng làm giảm dị ứng. “Những đứa trẻ này cũng có rối loạn nghiêm trọng trong điện giải hóa học, và có xu hướng tăng tính axit (CO thấp), Các số liệu gây sự ngạc nhiên và ấn tượng là tính axit và tình trạng thiếu ôxy (bicarbonate huyết thanh thấp = mức ô xy thấp). Bicarbonate kali, natri bicarbonate, magnesium carbonate và các loại tương tự đã được sử dụng. Bây giờ chúng ta bắt đầu hiểu lý do tại sao rất nhiều trẻ em đáp ứng tốt hợp chất phòng ngừa C (bicarbonate kali, canxi cacbonat, magie cacbonat), số khác cần chất phòng ngừa đặc biệt hơn (trong một số trẻ em bị bệnh niacin (axit nicotinic) bị cạn kiệt, chúng cần bicarbonate niacin)”.

Cân bằng acid / kiềm là một trong những khía cạnh bị bỏ qua nhiều nhất đối với sức khỏe, mặc dù người ta đã viết nhiều về nó. Nhìn chung, công chúng Mỹ cơ thể có tính axit cao, ngoại trừ những người ăn chay.

Trường hợp thứ ba: Một bệnh nhân 62 tuổi trải qua phẫu thuật vào tháng Mười Hai năm 1998 để điều trị ung thư tuyến nội mạc tử cung, tiếp theo là chu kỳ xạ trị và liệu pháp hoóc môn. Sau sự dày lên của phúc mạc và tăng trưởng của một số các hạch bạch huyết do carcinosis, về lâm sàng, bệnh nhân kiệt sức, sưng tấy, trướng bụng, đi ngoài bất thường(?), cảm giác nặng nề và huyết áp không ổn định. Điều trị bằng bicarbonate natri 5% qua một ống thông vào màng bụng (endoperitoneal) tình trạng sức khỏe được phục hồi nhanh chóng. Chụp cắt lớp cho thấy sự trở lại của carcinosis phúc mạc và ổn định kích thước của các hạch bạch huyết so với các năm trước.

Thận thường là cơ quan đầu tiên cho thấy các thiệt hại khi bị nhiễm phóng xạ uranium, Theo hướng dẫn của quân đội khi bị nhiễm xạ cần truyền sodium bicarbonate giúp kiềm hóa nước tiểu. Điều này làm cho các ion uranyl bớt độc hại và thúc đẩy bài tiết hợp chất uranium cacbonat không độc hại. Uống sodium bicarbonate làm giảm mức độ ảnh hưởng do uranium gây ra trong thận. [xi]

Trường hợp bốn: Một bệnh nhân 40 tuổi đã trải qua phẫu thuật (cắt bỏ toàn bộ vú bên trái) để điều trị ung thư biểu mô bảy tháng trước đó. Sau ba tháng của hóa trị, bệnh nhân bị di căn vào phổi, gan và xương đặc biệt là các đốt sống thắt lưng thứ năm và thứ sáu, xâm nhập và chèn ép tủy sống, gây ra đau đớn khiến bệnh nhân không đáp ứng với bất kỳ cách điều trị nào. Tất cả các thuốc giảm đau kể cả morphine không hiệu quả và bệnh nhân suy sụp thậm chí không thể ngủ. Người ta tiêm vào tủy sống muối sodium bicarbonate vì tin tưởng rằng nấm tích lũy trong các tủy sống chịu ảnh hưởng của muối này.

Tiến sĩ Tullio Simoncini kể lại: “Khi tôi từ từ tiêm 50 cc dung dịch bicarbonate natri 8,4%, bệnh nhân nói với tôi rằng cô ấy đã ngủ chỉ có hai giờ trong tuần cuối cùng. Kiệt sức, cô thì thầm với tôi: “Giá mà tôi có thể ngủ nửa giờ trong đêm nay”. Nhưng ngày sau đó, cô gọi tôi trên điện thoại và nói: “Tôi đã ngủ cả đêm”. Sau khi tiêm muối bicarbonate vào thắt lưng 2 lần trong tháng tiếp theo, cơn đau biến mất hoàn toàn. Kết quả chụp cộng hưởng từ trước và sau khi điều trị đã “gây sốc” cho chủ nhiệm khoa X quang của bệnh viện.

Sodium bicarbonate là một hợp chất hóa học với công thức NaHCO3. Sodium bicarbonate (baking soda) thường được sử dụng như thuốc kháng acid giúp điều trị ngắn hạn rối loạn tiêu hóa, điều chỉnh độ axit trong các rối loạn ở thận, làm cho nước tiểu kiềm tính trong nhiễm trùng bàng quang và giảm thiểu tinh thể acid uric trong điều trị bệnh gút. Chỉ định tiêm sodium bicarbonate để điều trị nhiễm toan chuyển hóa và nhiễm độc thuốc. Sodium bicarbonate là một loại thuốc không yêu cầu bán theo đơn,nó cũng là một thực phẩm thường có trong gia đình. Nó cũng được sử dụng với các thuốc không cần có đơn để mua để điều trị nhanh các cơn sốt cao và làm dịu các cơn đau vừa.

Sodium bicarbonate dùng hấp thụ kim loại nặng, dioxins và furane. So sánh các mô ung thư với mô khỏe mạnh từ cùng một người cho thấy rằng các tế bào ung thư có nồng độ chất độc hoá học, thuốc trừ sâu vv… cao hơn nhiều.

Sodium bicarbonate trung hòa axit trong các chất khí (axit hydrochloric, suphur dioxide, axit hydrofluoric) để tạo thành muối natri (sodium chloride, natri sunfat, natri florua, natri cacbonat), tất cả muối này đều được gọi là chất Sodium dư. Sodium bicarbonate có thể trộn với dấm thành dạng bột nhão để bôi vào các nốt đốt (đặc biệt là ong đốt), hoặc nốt do chất độc cây thường xuân, cây tầm ma, và cháy nắng. Nó được sử dụng như là một thuốc kháng acid để điều trị chứng khó tiêu và ợ nóng axit. dung dịch 10% Sodium bicarbonate có thể dùng làm mềm ráy tai để lấy chúng.

Truyền dung dịch bicarbonate natri trước khi chiếu xạ làm giảm tỷ lệ mắc bệnh thận. [xii]
Tiến sĩ Thomas P. Kennedy
Hiệp hội Y tế Hoa Kỳ

Bởi vì sodium bicarbonate từ lâu đã được biết đến và được sử dụng rộng rãi, nó có nhiều tên gọi khác bao gồm hydro natri cacbonat, natri bicarb, baking soda, bánh mì ngọt, soda nấu ăn, bicarb soda, saleratus hoặc bicarbonate soda. Nó hòa tan trong nước. Chất rắn màu trắng này thường ở dạng bột mịn. Nó có một hương vị kiềm nhẹ tương tự như của natri cacbonat. Khoáng chất này hòa tan trong nhiều suối khoáng. Nó cũng được sản xuất nhân tạo. Mỗi năm toàn thế giới sàn xuất chừng 100.000 tấn. Sodium bicarbonate chủ yếu được sử dụng trong nấu ăn, nó phản ứng với các thành phần khác để giải phóng khí carbon, làm bột nở.

Nó thường được sử dụng để tăng độ pH cho nước hồ bơi và spa. Sodium bicarbonate là một giải pháp đơn giản để khôi phục sự cân bằng độ pH của nước có nhiều clo. Đôi khi nó được sử dụng trong các bể tự hoại để kiểm soát pH và vi khuẩn.

Dùng nước khoáng giầu Sodium bicarbonate kết hợp với chế độ ăn ít muối có tác dụng tốt trong khả năng giữ canxi. [xiii]

Do thiếu bicarbonates và các khoáng chất nên uống nước cất là không an toàn, nó làm tăng tính axit trong cơ thể. Tuy nhiên, nó là một sự trợ giúp tuyệt vời trong cai nghiện và thải độc do độ tinh khiết của nó thu hút các chất độc trong cơ thể. Cơ thể của chúng ta có tính axit một phần là do nó thiếu bicarbonate cần thiết để trung hòa axit. Khi dùng nước thiếu bicarbonates để trung hòa, cơ thể của bạn trở nên có tính acid cao hơn. chúng ta có thể bổ sung vào nước cất hay nước lọc bicarbonate, magnesium và cả một số sodium thiosulfate. (Nghệ thuật và khoa học xử lý nước sẽ được trình bày trong tạp chí The Water of life,các ấn phẩm IMVA xuất bản vào cuối năm nay Sử dụng nước có ý thức làm tăng kết quả điều trị. Bạn không có thể tách rời quá trình hydrat hóa với độ pH. Giảm hydrat hóa làm tăng nồng độ axit trong cơ thể.)

pH của máu là yếu tố quan trọng nhất xác định trạng thái của các vi sinh vật trong máu.

Bản chất hóa học và các tính chất vật lý của natri bicarbonate cho phép dùng nó trong phạm vi rộng, bao gồm làm sạch, khử mùi, và chữa cháy. Sodium bicarbonate trung hòa mùi hóa học, nó không phải là mặt nạ cũng không hấp thụ chúng. Do đó, nó được sử dụng trong muối tắm và bột khử mùi cơ thể. Sodium bicarbonate có xu hướng duy trì độ pH 8.1 (7 là trung tính) khi bổ sung vào dung dịch có độ pH thấp. Khả năng ép thành viên nén tạo bọt cho phép dùng nó làm sạch hàm răng. Sodium bicarbonate cũng có trong một số sản phẩm nước súc miệng chống mảng bám và kem đánh răng.

Bicarbonate natri cũng được chỉ định khi bị tiêu chảy nặng làm mất bicarbonate. Điều trị bằng bicarbonate cần thiết khi bị nhiễm toan chuyển hóa, khi đó trong huyết tương lượng CO2 tăng mạnh ví dụ: khi tim ngừng đập, suy tuần hoàn do sốc hydrat hóa nghiêm trọng, khi bị toan lactic hoặc đái tháo đường nhiễm toan nặng.

Dược điển chỉ định tiêm Sodium Bicarbonate vào tĩnh mạch. Ở chứng ngừng tim,ban đầu từ một đến hai liều tiêm tĩnh mạch nhanh chóng lọ 50 ml (44,6-100 mEq) và tiếp tục sau 5 đến 10 phút nếu cần với 50 mL (44,6-50 mEq) (theo dõi chỉ số độ pH và lượng khí trong máu) để đảo ngược tình trạng toan. Cần thận trọng trong trường hợp khẩn cấp khi truyền rất nhanh số lượng lớn bicarbonate được chỉ định. Các giải pháp Bicarbonate khi điều chỉnh toan chuyển hóa có thể làm gia tăng không mong muốn nồng độ natri trong huyết tương. Tuy nhiên ở chứng ngừng tim, những rủi ro từ toan còn lớn hơn rủi ro do natri trong máu.

Trong hệ thống hiện tại, nếu không được cấp bằng sáng chế,một hợp chất dù rất có triển vọng, hiệu quả trong phòng thí nghiệm hay trong các phòng cấp cứu cũng khó đưa nó ra thị trường. Các hoóc môn melatonin, [xiv] được bán như là một thức ăn rẻ tiền tại Hoa Kỳ, kết hợp với các phương pháp điều trị thông thường đã làm các u ác tính tiến triển chậm lại. Tiến sĩ Paolo Lissoni, một bác sĩ chuyên khoa ung thư Ý đã viết nhiều bài viết về hoóc môn này và tiến hành các thử nghiệm lâm sàng. Nhưng ông đã thất vọng vì ngành công nghiệp dược phẩm không quan tâm đến phương pháp điều trị của mình.

Phần lớn chúng ta bị ung thư vào lúc này hay lúc khác của cuộc đời vì vậy chúng ta cần một cách tiếp cận mới để chống ung thư, an toàn và hiệu quả. Tình hình ung thư là khủng khiếp, ung thư ở trẻ em đã được nói đến trong cuốn sách “Sự khủng bố của Y học Nhi khoa- The Terror of Pediatric Medicine”, (có thể tải về như là một e-book miễn phí.)

Hầu hết mọi người lo sợ khi phát hiện ung thư, sau đó là phẫu thuật cắt bỏ, đốt cháy và đầu độc chúng. Hầu hết đều cho rằng các cách điều trị chủ đạo ung thư chỉ có hiệu quả giới hạn, và các bác sĩ đưa ra cách điều trị tích cực có chọn lọc một phần vì họ không có gì khác để điều trị cho bệnh nhân, và cũng bởi vì nó rất có lợi.

Nếu quá trình trao đổi chất của tế bào trong cơ thể và độ pH được cân bằng, cơ thể sẽ ít bị bệnh hơn.

Từ năm 1971, khi Tổng thống Nixon tuyên bố cuộc chiến chống ung thư, ngân sách của Viện Ung thư Quốc gia từ nửa tỷ đã tăng lên đến 4,8 tỷ USD nhưng tỷ lệ ung thư vẫn đang đi lên. Trong suốt nửa thế kỷ qua, việc điều trị các khối u xâm lấn như ung thư vú và ruột kết chủ yếu dựa vào thuốc, bức xạ hoặc cả hai, hay ném bom trải thảm vào các nhân DNA của tế bào ung thư. Những phương pháp điều trị này có độc tính cao và không giải quyết nguyên nhân gốc rễ của bệnh ung thư, chúng cực kỳ nguy hiểm, và có độ rủi ro cao.

Sự đa dạng của các loại ung thư phải thể hiện một cơ chế cơ bản mà từ đó bệnh phát sinh, tuy nhiên cho đến nay cơ chế phát sinh bệnh ung thư vẫn chưa được hiểu rõ.

Mặc dù cách điều trị đối chứng vẫn sử dụng sodium bicarbonate, song không vì thế các loại thuốc an toàn và không tốn kém như bicarbonate natri hoặc clorua magiê sẽ sớm được đưa vào danh mục các phương thuốc điều trị. Các tổ hợp công nghiệp y tế dường như không muốn thay đổi quan điểm của mình về bệnh ung thư, do đó bệnh nhân sẽ cần phải lặng lẽ yêu cầu bác sĩ của họ tiêm bicarbonate vào tĩnh mạch mà không dám chắc rằng nó là thứ mà họ muốn sử dụng để chữa bệnh ung thư của họ. Sẽ dễ dàng coi nó là phương pháp điều trị giảm nồng độ axit trong cơ thể hơn là một phương pháp điều trị bệnh ung thư. Một số ít bác sĩ sẵn sàng mạo hiểm giấy phép hành nghề của họ nếu như tốt hơn hết là không đặt mình vào tình thế khó xử mà họ không thể kiểm soát.

Độ pH gần 7,35 – 7,45, cao hơn mức trong cơ thể khỏe mạnh bình thường sẽ tạo khả năng chống lại trạng thái của bệnh.

Đáng buồn là điều này không dẫn đến việc sử dụng các ống thông trực tiếp vào các khối u nhiều hơn nó chỉ đẩy chúng ta tới một phác đồ điều trị ung thư một cách tổng quát và toàn diện hơn. Điều này cần phải được thực hiện bởi vì giết chết khối u bằng một cuộc chạy đua kiềm kích động một cơn sốt ôxy vào các tế bào sẽ không ngăn chặn tình trạng tái phát. Mặc dù chúng ta có thể nghĩ rằng tính acid đó là một nguyên nhân cơ bản gây ra ung thư nhưng nguyên nhân cơ bản hơn phải tìm là cái gì làm cho cơ thể của ta có tính axit trội.

Sodium bicarbonate là một chất chống nấm nó có khả năng khuyếch tán và vì thể rất hiệu quả.

Tiến sĩ Tullio Simoncini nói: “Nấm rất nhạy cảm với muối trong dung dịch điện phân. Các dung dịch này do có khả năng khuyếch tán cao, có thể xâm nhập vào các dạng sợi nấm, bao gồm cả những sợi nhỏ nhất. Muối và bicarbonates là các chất vô cơ nên nấm không thể sử dụng để nuôi dưỡng mình. Do vậy sodium bicarbonate, được sử dụng trong điều trị răng miệng của trẻ em, như một vũ khí đơn giản và tiện dụng có khả năng nhổ tận gốc, ức chế, hoặc giảm nhẹ sự hình thành nấm”.

Ung thư thực sự là một từ có bốn chữ – AXIT, đặc biệt là axit lactic – một chất thải do mức độ ôxy thấp và do nấm men và nấm.

Trong nhiều thế kỷ, Người ta đã dùng phòng tắm thuốc để điều trị bệnh vẩy nến. Thậm chí hiện nay muối từ Biển chết và nước suối khoáng được coi là có lợi trong điều trị bệnh vẩy nến bằng phương pháp ức chế miễn dịch.

Để đánh giá thống kê hiệu quả của phòng tắm bicarbonate natri ở những bệnh nhân bệnh vẩy nến, Người ta đã nghiên cứu 31 bệnh nhân với bệnh vẩy nến ở mức trung bình. Hầu như tất cả các bệnh nhân đã sử dụng NaHCO3 đều có chuyển biến tốt. phòng tắm sử dụng NaHCO3 làm giảm ngứa và dị ứng, bệnh nhân công nhận hiệu quả điều trị bệnh vẩy nến, vì vậy họ đã tiếp tục tắm với NaHCO3 ngay cả sau khi kết thúc đợt nghiên cứu.[xv]

Simoncini viết: “Liệu pháp Sodium bicarbonate là vô hại, nhanh chóng và hiệu quả bởi vì nó có khả năng khuyếch tán mạnh. Điều trị ung thư bằng bicarbonate nên dùng liều lượng cao, liên tục trong ít nhất 7-8 ngày. Nói chung một khối u kích thước 2-3-4 cm sẽ bắt đầu giảm nhỏ liên tục từ ngày thứ ba đến ngày thứ tư, và tan đi từ ngày thứ tư đến ngày thứ năm. Nói chung, giới hạn tối đa của liều lượng có thể dùng khoảng 500 cc dung dịch 5% sodium bicarbonate, có thể tăng hoặc giảm 20% liều lượng tùy theo khối lượng cơ thể và cơ địa bệnh nhân”.

Ở mức axit thấp trong các mô của cơ thể, các triệu chứng cảnh báo là nhẹ như nổi mẩn ở da, nhức đầu, dị ứng, cảm lạnh, cúm và các vấn đề về xoang. Những triệu chứng này thường được điều trị bằng các thuốc kháng sinh và thuốc ức chế. Để lâu, mức độ axit cao hơn bệnh tật tấn công nhiều hơn vì vậy tốt nhất là chống lại tính axit để ngăn ngừa bệnh tật. Chắc chắn một loại thuốc có độc tính cao như Tamiflu sẽ không làm được một phần nhỏ công việc của bicarbonate natri đặc biệt là nếu nó được kết hợp với clorua magiê, i-ốt cũng như hàm lượng cao vitamin C.

Ở mức axit cao, chúng ta cần các chất kiềm để tăng lượng kiềm đưa vào các tế bào ung thư. Nghiên cứu bằng quang phổ và chất đồng vị phóng xạ cho thấy kali, rubidi, và đặc biệt là cesium hiệu quả nhất với các tế bào ung thư. Hiệu quả tăng lên khi dùng kèm Vitamin A và C cũng như các muối kẽm và selen. Tăng lượng cesium có thể nâng độ pH trong tế bào lên mức 8.[xvi]

Thật là đáng xấu hổ khi phương pháp điều trị đối chứng thậm chí không sử dụng thuốc cấp cứu riêng của mình, các loại thuốc đã được chứng tỏ sức nặng như magnesium sulfate và magnesium clorua, natri bicarbonate và iodine cũng chỉ được dùng khoảng 1/1000 tiềm năng y tế của chúng.

Kết hợp độ pH thay đổi với nhiệt

Hãy cho tôi một cơ hội để tạo ra cơn sốt
và tôi sẽ chữa lành mọi bệnh

Parmenides
Nhà triết học Hy Lạp 2.000 năm trước

Sốt là một trong những sức mạnh phòng và chữa bệnh của cơ thể, nó được tạo ra để duy trì và phục hồi sức khỏe. Nhiệt độ cao làm tăng tốc độ trao đổi chất, ức chế sự phát triển của virus hoặc vi khuẩn xâm nhập, nhiệt đốt cháy kẻ thù. Sốt là một biện pháp bảo vệ và chữa bệnh hiệu quả không chỉ với cảm lạnh và nhiễm trùng, mà còn cả với các bệnh nghiêm trọng như bại liệt và ung thư.

Ý tưởng phá hủy ung thư bằng nhiệt là chắc chắn không phải là mới và đã được chấp nhận rộng rãi trong một thời gian rất dài, nhưng nó có các ứng dụng rất hạn chế vì để phá hủy sự phát triển ung thư, cần đạt nhiệt độ cao đủ để diệt cả các tế bào lành. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để vượt qua vấn đề này và một số phương pháp đã được phát triển như: Nung nóng cục bộ, chiếu tia laser, dùng sóng vô tuyến, truyền nhiệt (TTT). Nhưng các phương pháp này đều có những hạn chế, vì không thể diệt được hoàn toàn, trừ khi toàn bộ khối u bị phá hủy, ung thư sẽ tiếp tục phát triển. Tuy vậy tăng thân nhiệt cho phép:

1. Loại bỏ sự tích lũy của hóa chất độc hại gây ung thư
2. Cải thiện lưu thông để các mô được cung cấp ôxy và xả chất thải có tính axit chuyển hóa
3. Làm suy yếu hoặc thậm chí giết chết tế bào ung thư có khả năng chịu nhiệt kém hơn so với các tế bào khỏe mạnh.

Vì vậy chúng ta dễ dàng kết luận rằng phương pháp trị liệu xông hơi hồng ngoại sẽ giúp người bệnh ung thư. Tiến sĩ Antonella Carpenter đã hoàn thiện việc điều trị ung thư bằng nhiệt của tia laser. Cô diệt các tế bào ung thư bằng nhiệt. Tiến sĩ Carpenter, một nhà vật lý làm ở một bệnh viện vùng Little Rock, nói: “Chỉ cần toàn bộ khối u được chiếu tia laser một thời gian thích hợp, kết quả điều trị rất khả quan”. Phương pháp điều trị này làm tăng thân nhiệt có chọn lọc, các tế bào ung thư được nung nóng đến nhiệt độ có thể diệt chúng ngay lập tức hoặc trong vòng 48 giờ.

Mark Sircus Ac, OMD.
Giám đốc Hiệp hội Y tế Quốc tế Veritas – International Medical Veritas Association
http://www.imva.info
http://www.magnesiumforlife.com
director@imva.info

[i] (Liên kết)

[ii] Tăng cường hóa trị liệu bằng cách điều chỉnh pH khối u. Raghunand N, X, van Sluis R, Mahoney B, Baggett B, Taylor CW, Paine-Murrieta G, D Roe, Bhujwalla ZM, Gillies RJ. Trung tâm ung thư Arizona, Tucson 85724-5024, USA.

[iii] Tăng cường hóa trị liệu bằng cách điều chỉnh pH khối u. Raghunand N, X, van Sluis R, Mahoney B, Baggett B, Taylor CW, Paine-Murrieta G, D Roe, Bhujwalla ZM, Gillies RJ. Trung tâm ung thư Arizona.

[iv] Jerome B. Westin và Elihu Richter, “Ung vú bất thường”, Devra Lee Davis và David Hoel,hiệu đính TRENDS IN CANCER MORTALITY IN INDUSTRIAL COUNTRIES (New York:Viện Hàn lâm Khoa học New York, 1990), pgs. 269-279. Sau sự phản đối kịch liệt của công chúng, Israel cấm các hóa chất này được sử dụng vào thức ăn cho bò sữa và gia súc. Trong mười năm tiếp theo, tỷ lệ tử vong do ung thư vú ở Israel giảm mạnh, giảm tỷ lệ tử vong do ung thư vú là 8% và giảm 30% ở phụ nữ dưới 44 tuổi. Cũng thời gian này các rủi ro gây ung thư do rượu,các chất béo, trong chế độ ăn thiếu trái cây và rau quả – tăng lên đáng kể. Cũng trong giai đoạn này, tỷ lệ tử vong do ung thư trên toàn thế giới tăng 4%. Các nhà khoa học Câu trả lời chỉ có thể là do sự tăng các độc tố trong môi trường.

[v] (Liên kết)

[vi] hồi sức kết quả trong các hệ thống y tế khẩn cấp với việc sử dụng sodium bicarbonate trong hồi sức tim phổi. Bar, Joseph G et al; Acta Anaesthesiol Scand. 2005 Jan; 49 (1): 6 Entrez PubMed

[vii] Với mục tiêu hiệu quả tối đa, natri bicarbonate nên được phóng trực tiếp vào khối u để tiêu diệt nấm mốc. Người ta dùng máy xác định vị trí mạch máu đưa ống thông qua mạch cổng.Phương pháp này cho phép đưa một ống thông nhỏ trực tiếp vào động mạch nuôi khối u để phóng một liều cao bicarbonate natri. Bằng cách này có thể đi đến gần như tất cả các tổ chức trong cơ thể. (ngoại trừ khu vực xương như xương sống và xương sườn, ở đó có ít động mạch có đủ điều kiện đưa liều lượng thuốc cần thiết đến vị trí khối u). Giải pháp này vì thế là một vũ khí chống nấm rất mạnh để chống lại việc thành tạo các khối u, nó không gây đau đớn và không để lại tác dụng phụ và rủi ro là rất thấp.

[viii] Diễn đàn ONCOL Nurs. Tháng Tám 2002, 29 (7) :1063-80. Nghiên cứu tổng quan các phương pháp xạ trị bệnh viêm niêm mạc miệng miệng ở những bệnh nhân bị ung thư đầu và gáy. Shih A, Miaskowski C, Dodd MJ, Stotts NA, MacPhai

[ix] Bao gồm Benzotropines (valium), thuốc chống trầm cảm (amytriptayine), organophosphates, methanol (rượu Methyl là một loại chất lỏng giá rẻ, mạnh nhưng là loại rượu bị cấm) Diphenhydramine (Benedryl), thuốc ngăn Beta (propanalol) barbiturate, và salicylat (Aspirin). Sự ngộ độc do các loại thuốc ngăn các cửa dẫn sodium và làm hỏng điều kiện tuần hoàn trong não thất, suy nhược cơ tim, nhịp tim chậm, và các rối loạn nhịp tâm thất. Kết quả trên người và động vật cho thấydung dịch ưu trương natri bicarbonate có thể điều trị có hiệu quả cho các tác nhân ngăn các kênh truyền sodium như cocaine, quinidine, procainamide, flecainide, mexiletin, buvivacain…

[x] Các sự cố về an toàn trong các bệnh viện Mỹ đã tăng 3% từ 2003 đến 2005, vàsự khác biệt về mức độ các sự cố giữa các bệnh viện tốt nhất và tồi tệ nhất của quốc gia vẫn còn rộng. Các bệnh viện ở tốp đầu của Mỹ có số sự cố thấp hơn 40% so với các bệnh viện hoạt động loại kém. Số liệu khảo sát hơn 40 triệu hồ sơ nhập viện của 5.000 bệnh viện từ 2003 đến 2005.của Niên giám HealthGrades Patient Safety số 4 của American Hospitals Study và một công ty xếp hạng độc lập (Liên kết)

[xi] Một nghiên cứu về nhiễm toan, urê máu, các clorua huyết tương trong viêm thận do uranium ở chó, và biện pháp bảo vệ bằng bicarbonate natri. Journal of Experimental Medicine, Vol 25, 693-719, Copyright, năm 1917, Viện Nghiên cứu Y khoa Rockefeller New York

Tags: ,