Kỳ Môn Y Pháp

Kể từ khi trang web Nam Y Đạo Pháp ra mắt bạn đọc, chúng tôi đã nhiều lần đề cập đến phương thuốc Kỳ Môn Y Pháp được dùng để chữa các bệnh hiểm nghèo, nay xin giới thiệu một cách tổng quan để bạn đọc được biết rõ hơn.

 

I. Tư duy dẫn đến Kỳ Môn Y Pháp

1. Từ quy luật sinh học: thích nghi và tiến hóa

Mọi sinh vật từ con kiến đến con voi đều cần các chất protein, lipid, glucid, vitaminkhoáng chất để tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, mỗi loài có quá trình trao đổi chất khác nhau do hệ gen quy định; trải qua hàng triệu năm tiến hóa, mỗi loài tìm thấy cho riêng nó nguồn dinh dưỡng khác nhau để tồn tại cho đến ngày nay, tất cả chúng tạo nên sự cân bằng sinh thái và con người chúng ta cũng là một phần tử giúp duy trì cân bằng sinh thái.

Có thể lấy một số ví dụ: con tằm từ trứng nở thành, sự sống và phát triển và sinh sản của nó được lập trình trong bộ gen. Nó chỉ ăn lá dâu (Morus alba) và sống ở điều kiện nhiệt độ, độ ẩm… phù hợp. Nó lớn lên, rồi đến một lúc nào đó, khi đã sẵn sàng, nó kéo tơ làm kén, rồi phá kén chui ra thành con ngài tằm. Ngài tằm đực và cái giao hợp để duy trì nòi giống, ngài đực sẽ chết ngay sau đó, còn ngài cái cũng sẽ chết sau khi đẻ trứng. Như vậy, trong đời sống con ngài chỉ làm một nhiệm vụ duy nhất là sinh sản, mà không ăn uống. Có thể nói rằng, lá dâu trong chu kì biến thái của con tằm là nguồn cung cấp dinh dưỡng duy nhất. Đó là thức ăn bổ dưỡng hạng nhất, đồng thời là thuốc duy nhất để tằm khỏe mạnh, sinh trưởng và phát triển.

Cũng như vậy, do trình độ tiến hóa và thích nghi khác nhau mà con hổ chỉ ăn thịt, con dê ăn lá, con trâu ăn cỏ…, chúng tiếp thu “dinh dưỡng và thực phẩm chức năng” trong môi trường rất khác nhau.

Nếu mang thức ăn và thực phẩm chức năng của loài này cho loài khác ăn, chắc nó sẽ không thể hấp thu chuyển hóa, sinh bệnh mà chết.

Đối với con người, do quá trình tiến hóa đặc biệt và phức tạp, những dân tộc khác nhau cũng có cách thích nghi với môi trường khác nhau: người châu Á ăn thức ăn khác người châu Âu, Mỹ, Phi. Ngay cả trong một nước như nước ta, từng dân tộc, từng vùng miền cũng có điểm khác biệt. Ở đồng bằng Bắc Bộ, người dân ăn chủ yếu là gạo, rau, muối, có bổ sung đạm từ cá, thịt… nhưng rất ít. Bữa ăn có thể coi là một tổ hợp thực phẩm đặc biệt.

Nếu thức ăn cơ bản tách ra có thể gây nên bệnh tật. Ví dụ: ngày hôm nay chỉ ăn cơm nhạt, ngày mai chỉ ăn muối, ngày kia chỉ ăn rau… mà nếu tổ hợp ấy tách ra quá xa nhau, có thể dẫn con người đến cái chết.

Nếu thay đổi tổ hợp ấy đột ngột, ví như cho người đồng bằng Bắc Bộ ăn chế độ ăn toàn thịt, bơ, sữa như người Mông Cổ… có thể bị viêm tụy cấp hoặc ung thư tụy.

2. Nguyên lý dùng thuốc trong Kỳ Môn Y Pháp

Nhận thấy được tầm quan trọng của ăn uống trong tiến hóa và thích nghi, Nam Y Đạo Pháp dùng tối đa các vị thuốc là cây cỏ của Việt Nam và một số vị thuốc của các nước như:

  • Đương quy (Angelica sinensis), Thục địa (Rehmannia glutinosa), Mẫu đơn bì (Paeonia suffruticosa ), Bạch truật (Atractylodes macrocephala) của Trung Quốc
  • Đinh hương (Syzygium aromaticum ) của Ấn Độ, Indonesia.
  • Hồng Hoa (Carthamus tinctorius) ở Tây Tạng.
  • Cỏ ngọt (Stevia reaudiana) ở Đức.

Nam Y Đạo Pháp loại khỏi Kỳ Môn Y Pháp tất cả vị thuốc còn có độc tính vì tiến hóa của con người đã hết bản năng tự loại chất độc từ cây cỏ động vật không giống như con dê có thể ăn lá xoan, lá ngón, con rắn hổ mang có thể ăn con cóc. Nam Y Đạo Pháp hoàn toàn cấm phép “dụng độc trị độc”.

Nam Y Đạo Pháp tiếp thu lý thuyết y học hiện đại về gốc tự do và một số trường phái chữa bệnh khác, vì vậy, trong Kỳ Môn Y Pháp dùng các vị thuốc giàu các chất Flavonoids để loại gốc tự do trong chuyển hóa. Các vị thuốc ấy lại là các vị thuốc kinh điển mà nhiều trăm năm ông cha ta đã dùng, ví dụ như dây Kim ngân, Kim ngân hoa trong Nam dược thần hiệu (Tuệ Tĩnh).

Nam Y Đạo Pháp còn tiếp thu sâu về y học môi trường, vì thế các vị thuốc làm cho “nội môi” thay đổi để loại virus, vi khuẩn khỏi cơ thể. Mục đích cuối cùng là điều hòa được các chuyển hóa vật chất trở về các chỉ tiêu sinh học bình thường vì rối loạn chuyển hóa là gốc của nhiều bệnh hiểm nghèo.

3. Kết luận

Kỳ Môn Y Pháp là kết quả tư duy chữa bệnh của nhiều thế hệ thầy thuốc.

Kỳ Môn Y Pháp là kết quả của quy luật toán học – ma trận hay từ quy luật dịch học: “Thái cực sinh lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh tứ tượng, Tứ tượng sinh bát quái”. Điều này cũng đúng với quy luật tổ hợp chập 3 trong di truyền tạo nên 64 mã di truyền đặc biệt. Mỗi vị thuốc đơn lẻ khi tổ hợp lại nó tạo sức mạnh mới, và hợp các tổ hợp nhỏ sẽ có sức mạnh to lớn hơn nhiều.

Ví dụ 1: Hoài sơn là vị thuốc không độc, Phụ tử chế là vị thuốc miễn độc, với liều an toàn của Phụ tử chế khi tổ hợp với Hoài sơn, độ độc của tổ hợp này sẽ tăng lên rất nhiều và có thể gây chết người. Đó chính là sức mạnh của tổ hợp, nhiều tổ hợp ứng dụng theo Kỳ Môn Y Pháp thành Hợp Tổ Hợp.

Ví dụ 2: Bột Cát căn là một thực phẩm, là thức ăn bổ sung có tác dụnghạ sốt, giảm đau rõ rệt trên những bệnh nhân sốt xuất huyết, sởi, thủy đậu, trong đơn Bạch địa căn gồm: Bạch chỉ (Angelica dahurica), Địa liền (Kaempferia galanga L.), Cát căn (Platycodon grandiflorum) thì tổ hợp 3 này đã hội đủ sức mạnh để giải cảm, hạ sốt. Đây là 1 tổ hợp nhỏ cơ bản. Nhưng bột Cát căn khi uống với mật ong (một thực phẩm bổ dưỡng khác) thành một tổ hợp có độc tính, có thể gây chết người.

Trên đây là hai ví dụ về sức mạnh kỳ diệu của tổ hợp các thực phẩm chức năng. Từ thực tế này chúng ta tổ hợp được nhiều tổ hợp nhỏ có lợi ích tác dụng theo quy luật thì sức mạnh chữa bệnh sẽ đạt tới kết quả mỹ mãn. Vì thế mà Kỳ Môn Y Pháp ra đời sau nhiều năm nghiên cứu và ứng dụng

Vì bàn cờ tướng hay cờ vua đều có 64 ô, nên phép dùng thuốc này có tên là Kỳ Môn – bàn cờ (không phải “kỳ” là chuyện lạ, ly kỳ). Trong các ô sẽ ghi tên các vị thuốc và vận dụng theo quy luật để chữa bệnh nên gọi là Kỳ Môn Y Pháp.

Các vị thuốc trong các ô của Kỳ Môn Y Pháp dùng cho từng bệnh nhân và các vị thuốc được Nam Y Đạo Pháp sử dụng tạo thành tổ hợp khổng lồ các bài thuốc tương ứng (tính như toán học hiện đại về tổ hợp), do vậy mà có thể cá biệt hóa cho các bệnh nhân khác nhau. Phép điều động các vị thuốc là quân tinh nhuệ nhất được chọn trong hàng ngàn dược liệu mà phương Đông từng biết hoàn toàn có sẵn nhiều mà dễ tìm, dễ mua, dễ khai thác tránh phải dùng các dược liệu là viễn vị và các vị thuốc dễ bị nhầm lẫn.

II. Giới thiệu Kỳ Môn Y Pháp

Kỳ Môn Y Pháp là kết quả quan trong về huy động các vị thuốc lấy trung tâm là thuốc Nam để chữa trị các bệnh về chuyển hóa cơ bản theo các quy luật sinh học. Kỳ Môn Y Pháp cùng với Thần châm chữa bệnh, Khí công dưỡng sinh rèn luyện thân thể, Võ thuật dưỡng sinh… là các y pháp, y thuật không thể tách rời; là các bộ phận không thể thiếu trong điều trị bệnh của Nam Y, tùy mức độ bệnh tật mà vận dụng tối đa các y pháp, y thuật.

Khi tiến hành nghiên cứu tìm hiểu các bài thuốc chữa bệnh nổi tiếng hiệu quả ở trong nước và ở các nước phương Đông, chúng tôi thấy rằng các bài thuốc ấy có số vị thuốc thay đổi rất lớn:

  • 1 vị:          Nhân sâm độc ẩm thang
  • 2 vị:          Sâm phụ hồi dương
  • 3 vị:          Mộc đinh hoài cấp pháp
  • 4 vị:          Tứ quân, tứ vật, tứ sinh
  • 6 vị:          Lục vị
  • 8 vị:          Bát vị

Sau đó là các bài thuốc có nhiều vị thuốc như Thập toàn đại bổ, Minh mệnh thang.

Tới nay, các thầy thuốc có thể gia giảm vị thuốc trong các bài thuốc kinh điển ấy như Lục vị gia giảm, Bát vị gia giảm mà điển hình là phép dùng thuốc của Hải Thượng Lãn Ông. Đồng thời khi nghiên cứu diễn biến bệnh, căn cứ vào tác dụng dược lý của thuốc và bệnh cảnh lâm sàng, các thầy thuốc đã đối chứng, lập phương, vận dụng linh hoạt khả năng chữa bệnh của thuốc.

Tất cả các bài thuốc từ một vị đến nhiều vị ấy, không theo một quy luật nào, bản chất nhiều ít của các vị thuốc thường phụ thuộc vào sự chủ quan và trình độ uyên thâm các thầy thuốc.

Kỳ Môn Y Pháp thực chất là bàn cờ thuốc gồm 64 ô, trong đó có 36 ô ghi sẵn các vị thuốc là quân cờ, là các vị thuốc cơ bản nhất dùng cho cả đàn ông, đàn bà, trẻ em của hầu hết các bệnh phải chữa; 28 ô còn lại là những vị thuốc dự trữ để bổ sung một cách linh hoạt nhất nhằm đáp ứng được thay đổi của bệnh cảnh, lâm sàng và nhu cầu đặc biệt của bệnh, được điều chỉnh theo từng giai đoạn diễn biến của bệnh nhân cụ thể. Bàn cờ thuốc là một ma trận, vận động không lặp lại nên đáp ứng được đầy đủ các diễn biến về bệnh lý, thời tiết, khí hậu, mùa vụ, tuổi tác…

Vì các vị thuốc là “quân cờ” nên sẽ có thể được thay thế hoàn toàn, “quân vàng, quân bạc, quân bằng tre, bằng gỗ”… và có thể vận dụng “quân cờ” ở các quốc gia, các dân tộc khác nhau, nhưng đòi hỏi phải nghiên cứu nhiều mặt của sự thích nghi, tiến hóa, môi trường sinh thái…

Vì là các vị thuốc điều khiển các chức năng chuyển hóa nên bao gồm các vị thuốc là cây cỏ, động vật (không có khoáng vật), loại bỏ tất cả các vị thuốc có độc, hoặc đã được bào chế loại bỏ hết độc tính.

Như vậy, Kỳ Môn Y Pháp là phương pháp vận dụng tối ưu các vị thuốc cây cỏ, động vật, là thức ăn bổ sung để điều chỉnh quá trình chuyển hóa và các chức năng khác của cơ thể.

1. Kiện toàn hệ tiêu hóa, lấy đó làm trọng tâm điều trị.

Vì hệ tiêu hóa và các cơ quan kèm theo giải quyết việc hấp thụ protein, lipid, glucid, vitamin và khoáng chất từ môi trường ngoài, và chuyển hóa thành dinh dưỡng để nuôi dưỡng và xây dựng cơ thể.

Nếu hệ tiêu hóa mất khả năng của nó, sự trao đổi chất sẽ bị đình trệ và người ta không thể sống trong môi trường tự nhiên thông thường được. Vì vậy phục hồi và nâng cao chức năng của hệ tiêu hóa là mục đích của Nam Y, có thể giải quyết từ trẻ sơ sinh đến người già, cả nam và nữ.

2. Các vị thuốc giữ nội tiết

Đối với bệnh nhân là đối tượng nam, nữ đang ở độ tuổi còn hoạt động sinh đẻ, nếu rối loạn hệ nội tiết biểu hiện ở kinh nguyệt ở phụ nữ, tinh khí ở đàn ông… sẽ dẫn đến các rối loạn ở các chức năng sinh sản, nên vị thuốc giữ nội tiết được coi là “tướng” của bàn cờ thuốc. (Các bệnh nhân bị cắt tử cung, buồng trứng, cắt tinh hoàn không còn đáp ứng điều kiện này).

3. Các vị thuốc tác động lên hệ tuần hoàn

Đặc biệt là các vị thuốc tác dụng trên hệ sinh máu của cơ thể

4. Các vị thuốc tác dụng trên hệ hô hấp

Bộ máy hô hấp là nơi trao đổi oxy với môi trường, không thể bị đình trệ dù chỉ một vài phút, vì thế thuốc cần loại được dịch lắng đọng trong phế nang và đình chỉ việc xuất tiết dịch màng phổi và chống co thắt khí phế quản.

5. Các vị thuốc tác dụng trên quá trình đốt cháy và tích lũy đảm bảo sự điều nhiệt, giữ nhiệt tự nhiên của cơ thể

Chứng rối loạn nhiệt nhất là hiện tượng sốt cục bộ trong gan ruột (nội nhiệt) thậm chí sốt sâu hơn trong tủy xương dẫn đến rối loạn sinh máu.

6. Thuốc nhằm định tâm

Là các vị thuốc cung cấp năng lượng cho tim (tránh hồi hộp, lo lắng), điều chỉnh huyết áp.

7. Các vị thuốc an thần

8. Các thuốc giải độc nhằm đẩy các vật chất có hại hình thành trong quá trình chuyển hóa ra khỏi cơ thể

Bao gồm các vị thuốc giải độc truyền thống có flavonoid như Kim ngân hoa, Núc nác, Hoàng cầm, Uất kim…

9. Các vị thuốc cung cấp sinh tố và yếu tố vi lượng

 

III. Phép ứng dụng Kỳ Môn Y Pháp

Muốn ứng dụng tốt Kỳ Môn Y Pháp phải nắm vững toàn bộ các chẩn đoán:

  • Chẩn đoán thực nghiệm (hoàn toàn dựa vào chẩn đoán lâm sàng và cận lâm sàng của y học hiện đại).
  • Tứ chẩn của Trung y.
  • Đo kinh lạc theo phép thăm dò nhiệt độ tỉnh huyệt của lương y Lê Văn Sửu.
  • Chẩn đoán bằng nhiệt độ phát ra từ Lao Cung, Bách Hội, Ấn Đường… các bộ mạch đặc biệt: Mạch Xung, Mạch Phúc và phương pháp quy nạp theo quy luật sinh học.
  • Cuối cùng là kỹ thuật áp dụng Kỳ Môn Y Pháp.

Chú ý: có lúc cần tất cả 7 phương pháp chẩn đoán (thất chẩn), có lúc không cần hết, tùy từng bệnh nhân cụ thể. Trong dân gian còn có nhiều cách chẩn đoán bệnh khác mà Nam Y Đạo Pháp chưa ứng dụng.

Trong đơn thuốc Kỳ Môn Y Pháp có thể gạch bỏ các vị thuốc trên các ô cờ ghi sẵn, có thể để lại vài ba vị cần thiết, nhất là khi cần  một hay hai tổ hợp nhỏ để cấp cứu. Ví dụ thuốc chữa tiêu chảy cấp của trẻ em thường do virut Rota (dùng tổ hợp 3 vị thuốc: Bắc mộc hương, Hoài sơn, Đinh hương).

Có thể bổ sung các vị thuốc trên các ô trống (28 vị), có khi các ô đó được bổ sung kín.

Số lượng vị thuốc không bao giờ đạt đến 64 vị, vì thường được xóa đi các vị thuốc điều hòa kinh nguyệt khi dùng cho đàn ông và bỏ các vị thuốc hành khí, sinh tinh khi dùng cho đàn bà. Đối với trẻ nhỏ chưa đến tuổi dậy thì, người đang mang thai, các vị thuốc điều chỉnh nội tiết theo giới tính đều phải gạch bỏ.

Đối với các đơn chữa ung thư:

Giải độc cơ thể bao gồm tất cả từ khí huyết, cơ nhục, phủ tạng đến tế bào, sau đó là phục hồi hệ miễn dịch làm mất sự rối loạn nội môi trong toàn cơ thể, thức tỉnh khả năng loại dị vật dưới bất kì hình thức nào (loại vật thể lạ, tế bào lạ, tổ chức lạ).

  • Kỳ Môn Y Pháp là phương pháp kê đơn và sử dụng thuốc, thực chất là thực phẩm chức năng, là một bộ phận quan trọng nhất không thể thiếu của Nam Y Đạo Pháp. Khi chữa bệnh còn phối hợp Thần châm để chống rối loạn năng lượng cục bộ, khí công dưỡng sinh, rèn luyện thân thể bằng thể dục, võ thuật…
  • Kỳ Môn Y Pháp đã được dùng tốt cho tất cả các dân tộc trong nước, một số bệnh nhân gốc Hàn Quốc, Trung Quốc, Pháp, Hoa Kỳ… như vậy, Kỳ Môn Y Pháp có thể áp dụng ra ngoài lãnh thổ Việt Nam, nhưng cần phải thực nghiệm trên nhiều bệnh nhân hơn.

 

Đơn thuốc Kỳ Môn Y Pháp

Tags: