Tổng quan về căn bệnh ung thư
Phần I. Tổng quan về căn bệnh ung thư
Theo bản tin về ung thư của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) số 297 tháng 2 năm 2011, ung thư là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên toàn thế giới. Tỉ lệ tử vong do ung thư năm 2008 chiếm 13% với số lượng 7,6 triệu người trong số 57 triệu ca tử vong do bệnh tật toàn cầu.
Ung thư có thể có ở bất kỳ bộ phận nào của cơ thể. Không thể dễ dàng kể hết tên các loại ung thư đã được phát hiện ở thời điểm hiện tại. Một tính năng xác định của ung thư là các tế bào bất thường phát triển nhanh chóng vượt ra ngoài giới hạn thông thường của nó; xâm nhập vào các bộ phận liền kề và lây lan sang các cơ quan khác của cơ thể – quá trình đó được gọi là “di căn” và là nguyên nhân chính gây ra tử vong cho người bệnh.
Các bệnh ung thư gây chết chóc nhiều nhất trên toàn thế giới năm 2008 theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới công bố tháng 2 năm 2011 là:
- Ung thư phổi: 1.400.000 người
- Ung thư dạ dày: 740.000 người
- Ung thư gan: 700.000 người
- Ung thư đại trực tràng: 610.000 người
- Ung thư vú: 460.000 người
Hiện nay, ung thư – được hiểu là bệnh K hay cancer bắt nguồn từ chữ carcinoma gốc Hy Lạp – hay bệnh ung bướu. Theo nhiều nguồn tài liệu khác nhau từ hơn 4.000 năm trước Ai Cập cổ đại và Trung Hoa cổ đã biết tới bệnh lý khối u. Thế kỷ IV trước Công nguyên, Hippocrates (460-370 TCN) đã đề xuất u lành tính và u ác tính. Ở Việt Nam thế kỷ XIV, Thái y Thiền sư Tuệ Tĩnh (1330-1400) trong tác phẩm “Nam Dược Thần Hiệu” có hẳn một chương ngoại khoa nói về ung và thư đồng thời mô tả lâm sàng và cách chữa trị các bệnh tương đương với bệnh ung thư ngày nay như tràng ung, nhũ nham, thạch anh, anh lựu… Vào thế kỷ XIX, Rudolf Virchow (1821-1902), bác sĩ người Đức đã đề xuất bệnh lý tế bào bằng cách phân biệt các tế bào lành, ác bằng kính hiển vi. Giữa thế kỷ XX, loài người mới hiểu được vai trò của AND đồng thời hiểu biết về cấu trúc các bậc thang xoắn của nó. Mỗi bậc thang là một cặp bazơ hình thành bốn bậc thang cơ bản là A-T, T-A, C-G và G-C. Ngôn ngữ mã hóa của AND là bốn ký tự tương đương với 2 bit dữ liệu trong ngôn ngữ máy tính. Mãi tới năm 2000, hơn 3 tỷ ký tự của bộ mã gien người được Nhà Trắng Hoa Kỳ công bố và ung thư được hiểu theo chiều sâu là khi có một vài ký tự mã hóa gien “bị xáo trộn” – bị khóa chức năng dẫn tới việc hình thành các tế bào lạ với các đặc tính ung thư, phát triển vượt quá giới hạn chết đã được lập trình cho tế bào. Ung thư hiện nay đã được hiểu ở mức độ phân tử và dần dần con người đã hiểu rõ hơn về các cơ chế hình thành các tế bào ung thư.
Như vậy trong suốt khoảng 5.000 năm lịch sử, loài người đã hiểu được bản chất của căn bệnh ung thư, tuy nhiên việc phòng tránh và chữa ung thư vẫn đã và đang là thách thức to lớn của toàn nhân loại. Với tình hình tốc độ phát triển như hiện nay, theo Tổ chức Y tế Thế giới dự đoán đến năm 2030, loài người sẽ đối mặt với số tử vong do các bệnh ung thư tăng lên hơn 11 triệu người trên toàn thế giới.
Chính vì vậy, Tổ chức Y tế Thế giới và Cơ quan quốc tế nghiên cứu chống ung thư, cộng tác với các tổ chức Liên Hiệp Quốc và đối tác trong lĩnh vực kiểm soát và phòng chống ung thư quốc tế đã công bố một kế hoạch hành động mà nội dung gồm những điểm chính như sau:
- Tăng cường cam kết chính trị để phòng ngừa và kiểm soát ung thư;
- Tạo ra kiến thức mới và phổ biến kiến thức hiện có, tạo thuận lợi cho việc cung cấp các phương pháp tiếp cận dựa trên chứng cứ để kiểm soát bệnh ung thư;
- Phát triển các tiêu chuẩn và các công cụ hướng dẫn lập kế hoạch và thực hiện các biện pháp can thiệp để phòng ngừa, phát hiện sớm, điều trị và chăm sóc giảm nhẹ, nâng cao chất lượng sống cho bệnh nhân mắc bệnh ung thư;
- Tạo điều kiện phát triển mạng lưới rộng lớn của các đối tác kiểm soát bệnh ung thư ở các cấp độ toàn cầu, khu vực và quốc gia;
- Tăng cường hệ thống y tế ở cấp quốc gia và địa phương;
- Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật để chuyển giao nhanh có hiệu quả các biện pháp can thiệp tốt nhất cho các nước đang phát triển;
- Phối hợp và tiến hành nghiên cứu về nguyên nhân của bệnh ung thư của con người, các cơ chế sinh ung thư, và phát triển các chiến lược khoa học cho công tác phòng chống và kiểm soát ung thư.
Căn bệnh mang tên ung thư (K, ung bướu, cancer, carcinoma…) là một trong nhiều loại bệnh có liên quan tới chuyển hóa vật chất gây tử vong cao cho nhiều vùng lãnh thổ từ các nước phát triển cũng như ở các nước đang và kém phát triển. Riêng ở Hoa Kỳ năm 2010 có tới hơn 1,5 triệu ca mắc bệnh ung thư. Ở các nước kém phát triển con số này có thể nhiều hơn. Để loại trừ nguy cơ này, không thể tiến hành nghiên cứu, phòng chống, chữa trị và kiểm soát ung thư một cách đơn độc ở một làng xã, một huyện, một tỉnh, một quốc gia, hay một châu lục mà phải ở phạm vi toàn cầu. Mọi cá nhân, mọi dân tộc, mọi quốc gia đều phải có trách nhiệm nâng cao ý thức, hiểu biết về bệnh ung thư, nguyên nhân gây ra căn bệnh đã phát triển như một đại dịch mà thế giới chưa có cách phòng và chữa trị hiệu quả. Cần phải tiếp cận thông tin nhiều chiều để mỗi cá nhân có thể giúp ích cho chính bản thân mình và cho cả cộng đồng.
Phần II. Nam Y Đạo Pháp nghiên cứu và chữa ung thư
I. Nguyên nhân gây bệnh ung thư từ tác động của môi trường
1. Quan niệm về môi trường của Nam Y
Môi trường bao gồm tất cả các thông số và yếu tố hiện hữu của trời và đất. Trên trời có Mặt Trời, Mặt Trăng và các vì tinh tú hoạt động trong trật tự vô cùng vô tận của vũ trụ. Dưới mặt đất có núi, sông, biển, cây cỏ, sinh vật và con người. Các thông số ây luôn luôn biến động không ngừng tạo ra các điều kiện sinh sống của tất cả các sinh vật từ cây cỏ, động vật đến con người. Trong quá trình sinh sống và phát triển, con người, động vật, cây cỏ cũng tác động ngược trở lại môi trường làm cho đất trời thay đổi.
Người xưa đã đưa ra ba yếu tố chủ thể chính Thiên – Địa – Nhân là Tam Tài, quyết định đến sự vận động liên tục của môi trường: Thiên là Càn, Đất là Khôn. Càn Khôn luôn động, biến và sinh sát. Nhân – Con Người là chủ của muôn loài cũng động, biến và tác động trở lại vào Càn Khôn. Nếu những tác động ấy thuận theo đạo trời thì sẽ sống và phát triển, nghịch theo đạo trời đất thì sẽ bị diệt vong.
Điều này đã được các nhà khoa học chứng minh từ 3 tỷ rưỡi năm trước, do biến động của trời đất, các loài sinh vật xuất hiện và hình thành. Chúng thích nghi và tiến hóa theo các biến động ấy và đã tạo ra sự sống phồn thịnh bắt đầu từ trong lòng đại dương và sau này cả trên mặt đất. Khoảng 50.000 năm gần đây, loài người đã hình thành và phát triển tác động mạnh mẽ vào trời đất. Trong quá trình lịch sử tiến hóa hàng tỷ năm ấy, đã có nhiều chủng loại động thực vật phát triển, suy vong, và tuyệt diệt; nhiều loài mới xuất hiện, thích nghi, tiến hóa và tồn tại. Quy luật ấy vẫn hiện hữu đến tận ngày nay và tiếp tục vận động không ngừng.
“Môi trường” chỉ là một từ thông thường hiện chúng ta vẫn dùng để mô tả tất cả các điều kiện tự nhiên và xã hội ở phạm vi một khu vực địa lý. Thực tế, môi trường vẫn hiện hữu gồm hai loại như sau: “Ngoại môi” có nghĩa gần trùng với môi trường mà chúng ta vẫn thường thấy hàng ngày nhưng cần phải hiểu ngoại môi là một phạm trù vô hạn có thể đó là môi trường của một làng xã, một thành phố, một tỉnh, một nước, một châu lục hay toàn cầu. “Nội môi” là môi trường bên trong của một cá thể sinh vật bao gồm các điều kiện cần và đủ để các tế bào sinh sống, phát triển. Nội môi được thiết lập nhờ quá trình thích nghi và tiến hóa riêng của từng loài động và thực vật, bị giới hạn về không gian nhưng vô hạn về sự tinh tế và phức tạp. Ngoại môi và nội môi thường xuyên động và biến theo quy luật biến động của trời đất, vì thế các hoạt động sống của sinh vật cũng liên tục biến động. Chúng tuân theo quy tắc sinh và diệt, diệt và sinh liên tục không ngừng nghỉ.
2. Nguyên nhân gây bệnh ung thư do ô nhiễm môi trường
Môi trường bị ô nhiễm dẫn tới các bệnh chuyển hóa, trong đó có bệnh ung thư xuất hiện ngày càng nhiều. Trong những năm gần đây, do sự phát triển quá nóng của các nền kinh tế trên toàn cầu, không khí, nước uống, lương thực, thực phẩm đều bị con người làm ô nhiễm nghiêm trọng. Ngoại môi ô nhiễm dẫn tới nội mội của nhiều người bị ô nhiễm theo. Những cá thể không kịp thích nghi bị suy giảm miễn dịch nên dễ bị viêm nhiễm. Các thế hệ kháng sinh mới ra đời dẫn tới hệ quả số lượng vi khuẩn kháng thuốc ngày càng tăng theo và con người cũng mất dần khả năng miễn dịch sau khi sử dụng nhiều loại kháng sinh để chống viêm nhiễm. Mất khả năng miễn dịch cũng đồng nghĩa với mất khả năng tự vệ và loại dị vật của cơ thể. Đó là vấn đề mấu chốt dẫn tới khá nhiều căn bệnh ung thư như hiện nay. Vì lẽ đó, các nước phát triển và phát triển quá nóng khó tránh khỏi bệnh ung thư phát triển ngày càng tăng, số lượng bệnh nhân ung thư ngày càng nhiều.
Số bệnh nhân bị nhiễm khuẩn và virus dẫn tới ung thư chiếm một tỉ lệ lớn do tổn thương viêm nhiễm lâu ngày trên một cơ thể suy yếu, hệ miễn dịch và khả năng phòng vệ bị suy giảm. Điển hình là hai trường hợp sau đây:
- Ông Nguyễn Văn Ân ở Ninh Bình, năm 60 tuổi bị bò húc rách má, vết thương nhiễm trùng, đã dùng nhiều loại kháng sinh tiêm, uống và bôi mà không lành. 20 năm sau đến viện K xét nghiệm thấy có tế bào ung thư.
- Anh Lê Tuấn Bi, 35 tuổi, ở Bắc Giang, bị một người đẩy cửa va vào mặt khi anh vô tình bước ngang qua, xương gò má bị dập. 5 năm sau vết thương phát triển thành ung thư, khối u lan tràn lên xương hốc mắt và di căn.
Còn có rất nhiều các ví dụ khác về viêm nhiễm virus, vi khuẩn dẫn đến ung thư như viêm gan virus B, C dẫn tới ung thư gan, kiết lỵ mãn tính do amip hay trực khuẩn gây ung thư trực tràng…
3. Nguyên nhân khác gây bệnh ung thư
Ngay cả khi ngoại môi hoàn toàn trong sạch nhưng từ thời thượng cổ đến nay vẫn xảy ra các chứng ung thư đủ loại. Như vậy còn có nguyên nhân khác không liên quan đến môi trường. Nam Y đã mô tả các loại ung thư mà nguyên nhân sâu xa là do chính hành vi, thói quen sinh hoạt của con người gây ra; đó là:
- ung thư dạ dày, thực quản do dịch tụy và dịch mật trào ngược,
- ung thư vú ở phụ nữ do tắc sữa khi nuôi con bú hoặc do nạo thai không hết sữa non,
- ung thư não do rối loạn tuần hoàn, não thiếu máu lâu ngày gây nhức đầu kinh niên,
- ung thư phổi do hút thuốc lá, thuốc lào lâu ngày,
- ung thư gan trên nền sơ gan do uống rượu bia nhiều…
… và còn rất nhiều loại ung thư xuất hiện vì những lý do thông thường khác.
Cần phải quan niệm rõ ràng việc các tế bào có AND trong nhiễm sắc thể của chúng bị khóa các ký tự dẫn đến tạo ra tế bào lạ, tổ chức lạ, ung thư chỉ xảy ra cục bộ ở những nơi xung yếu của cơ thể mà lực lượng phòng vệ và các hình thức miễn dịch không có khả năng loại bỏ hoặc vô hiệu hóa, trên cơ sở ấy khối u phát triển. Khối u tranh chiếm năng lượng của cơ thể, phát triển chèn ép gây đau đớn làm bệnh nhân mất ăn mất ngủ, tinh thần bải hoải, bạc nhược, dẫn tới nội môi bị sụp đổ. Nếu như ở con người vững vàng về tinh thần, thể chất tốt thì khối u phát triển chậm hơn. Nếu thay đổi cách sống, thói quen ăn uống, sinh hoạt theo chiều hướng tốt, khả năng loại dị vật và vô hiệu hóa tổ chức lạ tăng lên, khối ung thư có thể tự biến mất.
II. Nam Y chẩn đoán ung thư bằng thất chẩn
- Nam Y lấy chẩn đoán của y học hiện đại làm chuẩn mực, đó là chẩn thứ nhất.
- Sau đó xác định tiếp tục bằng tứ chẩn của đông y để xác định các rối loạn thuộc bát cương: âm, dương, hàn, nhiệt, biểu, lý, hư, thực.
- Bằng đo nhiệt độ tỉnh huyệt thăm dò các chức năng hoạt động của các kinh mạch và phủ tạng, đó là chẩn thứ sáu.
- Bằng quy luật sinh học để xác định gốc gác căn nguyên của quá trình ung thư, phân biệt vấn đề nặng, nhẹ, sai, đúng của các chẩn đoán trên, đó là chẩn thứ bảy.
Tóm lại, chẩn đoán chắc chắn ung thư bằng thất chẩn để quá trình chữa trị tránh được các thăm dò độc hại như chụp cắt lớp vi tính CT scan và cộng hưởng từ có tiêm cản quang, PET CT…
III. Mục đích chữa ung thư của Nam Y Đạo Pháp
Nam Y coi các tổ chức lạ trong cơ thể được chẩn đoán là “lành tính” hay “ác tính” gần như giống nhau – tức là dị vật không được tồn tại và phát triển trong cơ thể. Vì các khối u dù đã được chẩn đoán là lành vẫn lấy năng lượng của cơ thể để sống và phát triển. Đó là các tổ chức ăn bám phải được loại bỏ. Mặc dầu các tổ chức lạ lành tính được cơ cấu bằng các tế bào gần như lành vì nếu các tế bào lành hoàn toàn thì không tập hợp hình thành tổ chức lạ.
Căn cứ vào quy luật tự nhiên của mọi sinh vật sống, từ các vi khuẩn đến các tổ chức sinh vật phức tạp như cơ thể con người, đều có khả năng loại dị vật ra khỏi tổ chức sống của mình. Trải qua quá trình thích nghi và tiến hóa lâu dài, các tổ chức và bộ phận cơ quan không cần thiết của cơ thể bị tiêu biến đi và các cơ quan cần thiết cho hoạt động sống được phát triển và kiện toàn. Như vậy, tế bào lạ hay tổ chức lạ không thể tồn tại trong một cơ thể khỏe mạnh hoàn hảo. Việc phục hồi khả năng loại dị vật của cơ thể chính là mục đích và nguyên tắc loại u lành tính và u ác tính – ung thư ra khỏi cơ thể của Nam Y.
IV. Ung thư không dễ di căn, khi di căn chưa phải là hết cách chữa
Khi khối ung thư phát triển đến một mức nào đó, chúng tung nhiều tế bào lạ vào hệ tuần hoàn lưu lạc khắp cơ thể. Đa số lượng tế bào này sẽ bị lực lượng phòng vệ cơ thể tiêu diệt. Chỉ những tế bào lạ đến được các vùng mà mất khả năng kiểm soát của lực lượng phòng vệ cơ thể thì chúng mới có thể phân chia tạo thành khối u di căn.
Thông thường các khối u mới hay xảy ra ở các điểm lân cận của khối u nguyên phát vì sự chống đối quyết liệt của cơ thể. Với những người khỏe mạnh, tế bào lạ không có khả năng sống sót. Khi sự chống đỡ của lực lượng phòng vệ cơ thể bao gồm hệ thống miễn dịch, khả năng loại dị vật và bao vây phong tỏa bị suy yếu, khi ấy ung thư mới có khả năng di căn xa.
Bất kể khi ung thư đã di căn xa vẫn có thể dùng những y pháp và y thuật của Nam Y để loại bỏ ung thư trước khi các cơ quan quan trọng của cơ thể chưa bị đình chỉ hoạt động. Khi mà cơ thể hoàn toàn suy yếu, các tế bào lạ cư trú tràn lan và tạo ra các tổ chức lạ khắp cơ thể, hấp thụ hết năng lượng, đẩy cơ thể đến chỗ hoàn toàn kiệt quệ, hết khả năng sống còn.
Ở mỗi người bệnh, mỗi bước phát triển của ung thư đều có đặc điểm riêng nên Nam Y đã vận dụng phương thuốc Kỳ Môn Y Pháp một cách linh hoạt, cá biệt hóa việc sử dụng cây cỏ và động vật không còn chất độc, không có tác dụng phụ để phục hồi khả năng phòng vệ của cơ thể giúp loại dị vật, tổ chức lạ, và tế bào lạ, dần dần làm cho ung thư di căn ngừng lại đến khi khối u nhỏ dần và khỏi hẳn.
Qua kinh nghiệm khám và chữa trị ung thư lâu năm, chúng tôi nhận thấy các căn bệnh ung thư mặc dầu là hệ quả của gen bị lỗi ở cấu trúc ADN nhưng phần lớn lại không phải là bệnh di truyền. Các bệnh thuộc gen di truyền từ bố mẹ sang con cái phần lớn không phải là bệnh ung thư và Nam Y không có biện pháp chữa trị.
V. Phương pháp loại các tổ chức lạ và ung thư bằng Nam Y
- Các bệnh nhân mắc bệnh ung thư đều có hiện tượng nội môi bị nhiễm độc cho nên Nam Y chủ trương dùng các vị thuốc giầu các hợp chất flavonosit không chứa các chất độc và không gây tác dụng phụ.
- Các bệnh nhân mắc bệnh ung thư đều suy giảm miễn dịch nên Nam Y chủ trương dùng các cây cỏ và vị thuốc giúp cơ thể tăng cường khả năng miễn dịch, tăng khả năng loại dị vật.
- Nam Y ứng dụng châm cứu Thần Châm để loại bỏ các tổ chức ung thư bằng cách điều động thu hút năng lượng tập trung loại bỏ khối u ở mọi nơi trên cơ thể.
- Nam Y khuyến cáo sử dụng thảo dược Nhân Sâm Ngọc Linh của Việt Nam và thực phẩm chức năng Linh đan Thiềm Ô Châu được điều chế đặc biệt để phòng chống và chữa trị các bệnh ung thư.
- Nam Y chữa các vết thương hở lở loét, viêm nhiễm lâu ngày không liền bằng thuốc Loxain được bào chế từ thảo dược.
- Nam Y chống các ung, bướu, hạch nổi trên các phần ngoài da và cơ bằng chế phẩm dịch ĐEN được bào chế từ bài thuốc của danh y Tuệ Tĩnh.
- Nam Y khuyến cáo bệnh nhân ung thư kết hợp uống thuốc theo phương Kỳ Môn Y Pháp, đồng thời sử dụng châm cứu Thần Châm và luyện tập khí công để vận động cơ thể lưu thông khí huyết trên toàn bộ cơ thể, tránh tắc nghẽn khí huyết cục bộ tại bất kỳ nơi nào trên cơ thể.
Các bệnh nhân ung thư đều có nhiều đặc điểm rất cá biệt về tuổi tác, giới tính, tình trạng sức khỏe cũng như các biểu hiện lâm sàng của hệ tiêu hóa, bài tiết, tuần hoàn, hô hấp, nội tiết… Đơn thuốc cho bệnh nhân ung thư được điều động theo phương Kỳ Môn Y Pháp. Đó là tập hợp các tổ hợp thuốc phối hợp, hỗ trợ và khống chế lẫn nhau một cách tối ưu, mục đích nhằm khôi phục và điều hòa chức năng của toàn bộ cơ thể, giải độc nội môi, tăng cường miễn dịch và phòng vệ cơ thể. Các đệ tử Nam Y đều được huấn luyện kỹ việc điều động các vị thuốc một cách thuần thục dựa trên kết quả của “thất chẩn” (xem bài tổng quan về Kỳ Môn Y Pháp). Vì đã loại hết các vị thuốc có độc và tác dụng phụ nên bệnh nhân có thể yên tâm uống thuốc. Đơn thuốc sẽ được điều chỉnh mỗi khi bệnh nhân có các rối loạn về đau đớn, ăn uống, ngủ nghỉ, vệ sinh…
VI. Kết luận
Với sức mạnh giao thoa của các nền y học đông tây, truyền thống và hiện đại, bằng y pháp và y thuật của riêng mình, Nam Y dùng quy luật sinh học – khả năng loại dị vật của cơ thể có thể độc lập chữa khỏi các bệnh ung thư não, ung thư phổi; phối hợp với y học hiện đại để chữa ung thư gan sau nút mạch TOCE, ung thư ruột và ung thư dạ dày sau phẫu thuật. Nam Y có thể chữa trị đẩy lui bệnh cho các bệnh nhân ung thư sống sót sau khi thực hiện phẫu thuật, xạ trị, hóa trị ở trong nước hay các kỹ thuật hiện đại khác như tế bào gốc, phóng xạ hạt nhân ở nước ngoài. Nam Y có thể chữa trị cho những bệnh nhân ung thư di căn miễn là các khối u chưa làm sụp đổ hoạt động của các cơ quan, tạng phủ mà nó di căn đến, ví dụ như ung thư đại tràng di căn phổi, di căn gan; ung thư phổi di căn hạch trung thất, hạch thượng đòn, di căn não; ung thư vú di căn phổi…
Tiêu chuẩn khỏi bệnh của Nam Y hiểu theo đúng nghĩa là bệnh nhân hết u bướu, hết các rối loạn chuyển hóa, các chỉ số sinh hóa, huyết học, miễn dịch tế bào trở lại mức bình thường cho phép. Bệnh nhân khỏi bệnh trở lại sinh sống và lao động bình thường chứ không phải là sống sót như tiêu chuẩn của Tây Y.
Một điều quan trọng mà tất cả các đệ tử Nam Y và bản thân tôi thấm nhuần là bệnh nhân cần lưu ý việc khám bệnh và ra đơn bốc thuốc chỉ đóng góp phần nhỏ khoảng 30% công chữa bệnh, phần còn lại 70% là phụ thuộc vào bệnh nhân và sự chăm sóc của gia đình bệnh nhân. Không thể chữa khỏi bệnh ung thư dù còn ở thể nhẹ nếu như bệnh nhân bi quan, chán nản, bất hợp tác tuân theo chỉ dẫn, thực hiện các y pháp, y thuật của Nam Y, không thay đổi thói quen sinh hoạt xấu – là nguyên nhân gây ra căn bệnh của mình như uống rượu bia, hút thuốc lá, ăn uống vô độ hoặc thiếu sự chăm sóc từ phía người thân trong gia đình bệnh nhân. Ngược lại, đối với những bệnh nhân dù đã mắc bệnh ung thư ở thể nặng hay di căn xa nhưng có ý chí quyết tâm chữa bệnh, tinh thần lạc quan, tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp chữa trị, gia đình tận tình chăm sóc thì có thể dần dần đẩy lùi bệnh đến khỏi.
Chữa bệnh ung thư cần đảm bảo sự hoàn hảo về giải phẫu cơ thể, nhất là các phủ tạng và các tuyến nội tiết, đồng thời tránh dùng các thuốc và phương pháp độc hại để đảm bảo nội môi không bị ô nhiễm dẫn tới sụp đổ. Vì ngoại môi sụp đổ thì cả cộng đồng sinh thái sẽ dẫn đến diệt vong. Còn nội môi của cá nhân nào đó bị sụp đổ thì người đó sẽ phải chết.
Trong cuốn sách “Ngôn ngữ của Chúa” xuất bản năm 2007, tác giả Tiến sĩ Francis S. Collins, giám đốc Dự án giải mã gien người (Hoa Kỳ) đã cho chúng ta thấy bệnh nhân bị ung thư di căn có thể tử vong bất kể lúc nào, tuy nhiên vẫn có trường hợp bệnh nhân đã tự khỏi và ông khẳng định đó là sự kỳ diệu do Chúa tạo ra. Có lẽ ông không ngờ rằng nếu đúng Chúa viết quyển sách gồm hơn 3 tỷ ký tự mã gien để tạo ra loài người thì chính Chúa đã ghi sẵn cách chữa bệnh ung thư – đó chính là khả năng loại dị vật của tất cả sinh vật trên trái đất này. Việc bị mắc bệnh ung thư là do con người tự gây ra và việc chữa khỏi bệnh ung thư cũng là do con người tự phải chữa. Nếu muốn khỏi bệnh ung thư thì con người phải tuân theo các quy luật tự nhiên là giữ gìn ngoại môi và nội môi trong sạch.
—o0o—
Nam Y Đạo Pháp
Hà Nội, 3/6/2011